Cách nội thành Hà Nội khoảng 60km về phía Tây Bắc, dãy núi đất và đá vôi Ba Vì trải rộng trên một phạm vi 5000 ha, nằm trên địa giới ba huyện là Ba Vì (Hà Nội), Lương Sơn và Kỳ Sơn (Hòa Bình). Dãy núi Ba Vì nằm giữa vùng đồng bằng xen kẽ đồi gò, chia cắt bởi các thềm đá gốc và thềm phù sa cổ sông Hồng, trên nền địa chất bền vững được hình thành từ những cuộc chuyển động kiến tạo địa tầng xảy ra vào cuối kỷ Triat muộn (khoảng 210 triệu năm về trước). Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học cho thấy dãy Ba Vì nằm trong xứ Đoài – một vùng đất cổ cùa người Việt – nơi tìm thấy rất nhiều các di vật bằng đá (như rìu, bàn mài, chì lưới, mũi nhọn, bàn dập, hòn kê, giáo, đục, mũi tên, đồ trang sức…), các hiện vật bằng đồng (gồm đồ đồng, đồ gốm…) có niên đại văn hóa Sơn Vi, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun cho đến văn hóa Đông Sơn cách ngày nay hàng nghìn năm. Tại di chỉ Phương Khê dưới chân núi Ba Vì, các nhà khảo cổ học đã tìm được hai chiếc trống đồng loại I tiêu biểu cho những thành tựu đúc đồng rực rỡ thời đại kim khí.
Khí hậu vùng núi Ba Vì trong lành, mát mẻ. Từ năm 1932, núi Ba Vì được coi là nơi nghỉ mát lý tưởng ở đồng bằng Bắc Bộ, giống như Sa Pa ở Tây Bắc, Đà Lạt ở Tây Nguyên. Sách Bắc Thành địa dư chí ở thế kỷ XIX chép rằng: “Hình núi tròn như cái tán nên gọi là Tản Viên, rộng rãi bao la, đứng cao hùng vĩ, làm trấn sơn cho cả một vùng, cao 2.310 trượng, chu vi 18.605 trượng, hướng tây có sông Đà chảy quanh theo, rừng cây rậm rạp, cánh trí đẹp”. Trên dãy Ba Vì có nhiều ngọn núi, trong đó nổi tiếng nhất là Tản Viên (còn gọi là Ngọc Tản, Tản Sơn, hoặc Phượng Hoàng Sơn). Núi Tản Viên cao 1.281 m, từ chân núi lên đến gần đỉnh thì thắt lại, đỉnh núi lại xòe ra như chiếc ô nên gọi là Tản . Ngoài Tản Viên, trên dãy Ba Vì còn có nhiều núi cao khác như Ngọc Lĩnh, Tương Miêu, U Bò, Núi Tre, Ghẹ Đùng, Trăm Voi, Ngọc Hoa và núi Vua. Không chỉ có vị trí quan trọng về địa lý, núi Ba Vì còn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, có địa vị độc tôn trong đời sống tâm linh người Việt xưa, tương tự như đỉnh Olympus (cao 2.917m) nơi ngự trị của chúa thần Deus (Dớt) trong tâm thức của người Hi Lạp cổ. Từ thế kỷ XV, trong sách Dư địa chí, Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng “Núi ấy là núi tổ của nước ta đó”. Năm Bính Thân (1836), vua Minh Mạng cho đúc “Cửu Đỉnh” đặt ờ kinh thành Huế làm biểu tượng cho uy thế và sự bền vững của vương triều Nguyễn. Trên Thuần Đỉnh cao 2,32m, nặng 1.950kg, hình núi Tản Viên được chạm cùng với cửa biển Cần Giờ và sông Thạch Hãn – những thắng cảnh bậc nhất ở nước ta. Tiếp đó, vào năm Canh Tuất (1850), vua Tự Đức đã quyết định xếp núi Tản Viên vào hàng “linh sơn’’ của đất nước, được ghi chép vào Tự điển để tổ chức cúng tế hàng năm. Trên núi Vua, ngọn núi cao nhất (khoảng 1.296m), có đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong nhiều thế kỉ qua, núi Ba Vì được gắn liền với nền văn hóa dân gian xứ Đoài và truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh. Dân gian có câu: Nhất cao là núi Ba Vì, thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn. Thực ra, núi Ba Vì chỉ cao 1.296m, trong khi núi Tam Đảo lại cao đến 1.581 m. Nhưng vì núi Ba Vì là nơi ngự cùa Thần núi Tản Viên (Tản Viên Sơn Thánh) – vị linh thần đứng đầu “tứ bất tử” trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, nên nơi đây được tôn vinh thành ngọn núi cao nhất, thiêng liêng nhất. Núi Ba Vì “nhất cao” là cao trong tâm thức, trong đời sống tâm linh, chứ không phải đơn thuần là độ cao thấp về địa lý, địa hình thông thường. Tương truyền, núi Ba Vì cao như vậy là do Sơn Tinh (tức Tản Viên Son Thánh) dùng “sách ước” nâng núi lên cao để ngăn dòng nước lũ, chống lại đội quân của Thủy Tinh.
Trong quan niệm phong thủy, lấy núi Nghĩa Lĩnh (cố đô của nước Văn Lang xưa) làm tâm điểm, núi Ba Vì và núi Tam Đảo là hai điểm đối xứng tạo thành “Thế tay ngai” của triều đại vua Hùng. Xứ Đoài đã ôm vào lòng cả ba dòng sông lớn: sông Đà, sông Thao và sông Lô. Ngã ba Bạch Hạc là điểm giao của ba dòng sông ấy, để rồi tụ thủy ở đầu sông Cái (sông Hồng) tạo dựng thành vùng châu thổ trù phú của đồng bằng Bắc Bộ ngày nay. Núi Ba Vì không chỉ là ngọn núi huyền thoại, gắn liền với huyền tích Sơn Tinh – Thủy Tinh, mà còn là ngọn núi linh thiêng của xứ Đoài. Tương truyền, vua nhà Đường (Trung Quốc) cho rằng núi Ba Vì như là một đầu rồng hùng mạnh, có thân rồng chạy suốt tới phương Nam (tức dãy Trường Sơn ngày nay). Để nước Nam không thể phát vương, vua Đường đã cử Cao Biền, một vị tướng kiêm phù thủy, dùng pháp thuật để trấn yểm, cho đào một trăm cái giếng xung quanh chân núi Ba Vì hòng triệt phá long mạch nước Việt. Tuy nhiên, tất cả một trăm cái giếng, cứ giếng nào đào gần xong thì lại bị sập xuống, lấp kín yếu huyệt của trời đất. Cuối cùng, vua quan triều Đường đành phải bỏ cuộc bởi dãy núi thiêng cùa nước Việt phía trời Nam. Quanh núi Ba Vì hiện nay có nhiều tên đất, tên làng, tên vạt đồi, đồng nội, tên dòng sông, khe suối, địa hình, địa vật, đầm hồ, bờ bãi, đình, đền, miếu mạo và những con người gắn liền với truyền thống Sơn Tinh còn in đậm trong sự tích và truyện kể dân gian xứ Đoài. Những quả đồi Mòm, dẫy gò Choi thuộc vùng Tòng Lệnh, ở phía Bắc núi Ba Vì; những trái núi ở vùng Sụ Đá, La Phù và Thạch Khoán; nhũng hòn núi Chẹ và dãy núi đá Chèm ở phía Tây thuộc mạn sông Đà; những dãy đồi Máng Sòng, Đồi Giếng ở phía Đông núi Ba Vì là những chiến tích của Sơn Tinh, ngày đêm gánh đất lập thành phòng tuyến chống lại Thủy Tinh. Ngọn đồi Vai cao nhất xã Kim Sơn tương truyền là tảng đá rơi vì sọt gánh đất cùa Sơn Tinh bị thủng. Dãy đồi Đùm san sát kéo dài ở xã Xuân Sơn là đất đổ ra do đứt quang trên dọc con đường Sơn Tinh gánh đất. Bãi Đá Chông là bãi chông của Sơn Tinh… Trên bãi chiến trường xưa còn nhiều dấu tích của trận chiến huyền thoại Sơn Tinh – Thủy Tinh, như suối Di, sông Tích, ngòi Tôm, đàm Mom, đầm Mít, đầm Sui, xóm Rùa, xóm Cá Sấu (ở xã Vân Hòa, huyện Ba Vì); thôn Rắn Giải ở Phụ Khang (xã Đường Lâm); truyền thuyết Thuồng Luồng ở Cầu Hang (xã Thanh Mỹ); truyền thuyết Thủy quái ở Ghềnh Bợ trên dải sông Đà… Tất cả đều mang dấu tích những trận đồ tàn binh, bại tướng của Thủy Tinh. Nhũng truyền thuyết dân gian về cuộc giao chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh chứng tỏ tổ tiên người Việt đã bắt đầu công cuộc trị thủy, mở mang bờ cõi ở hạ lưu sông Đà, sông Tích, tạo nên một vùng Ba Vì trù phú.
Xung quanh vùng núi Ba Vì hiện có hàng trăm ngôi đình, đền, miếu thờ Thánh Tản Viên – Sơn Tinh như đền Trung, đền Hạ, đền Thượng, đền Đá Đen, đền Vật Lại, đền Măng Son, đền Khánh Xuân, đình Yên Nội, đình Tây Đằng, đình Mỗ Lao, đình Quất Động, đình Đông Viên, đình Quan Húc, đình Phú Thứ, đình Thanh Hùng, đình Thụy Phiêu… Núi Ba Vì là ngọn núi thần kỳ, là một trong những ngọn núi cổ nhất của nước Việt Nam. Những phát hiện về khảo cổ học về vùng văn hóa cổ Ba Vì đã chứng tỏ đây là một vùng đất cổ, sớm phát triển trong lịch sử hình thành dân tộc. Núi Ba Vì còn là nơi ngự trị muôn đời của Thánh Tản Viên – vị thần tối linh trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Bạn có thể xem thêm thông tin về tour du lịch Hà Nội và khách sạn Hà Nội tại đây.